Ông sinh ngày 2/11/1901, trong một gia đình nông dân khá giả, tại xã Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành), huyện Yên Thành , tỉnh Nghệ An.
Thuở nhỏ, Phan Đăng Lưu học chữ Hán, sau học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Khi sắp học hết bậc Cao đẳng tiểu học tại Huế, ông thi vào trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang. Tốt nghiệp ra trường, ông được điều động làm việc ở nhiều địa phương trong nước, cả ở Tây Nguyên và cuối cùng bị thải hồi vì "vô kỉ luật, hoạt động chống đối". Ở Vinh được gặp người bạn cùng chí hướng, Phan Đăng Lưu tham gia Hội Phục Việt, sau đổi là Hội Hưng Nam, rồi Tân Việt Cách mạng đảng.
Ngày 14/7/1928, tại Đại hội thành lập Tân Việt Cách mạng đảng (Đảng Tân Việt), ông được bầu làm Uỷ viên thường vụ Tổng bộ, phụ trách tuyên huấn. Cuối năm 1928, được phân công sang Quảng Châu (Trung Quốc) gặp Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để bàn kế hoạch thống nhất hành động. Ngày 15/5/1929, ông trở về nước báo cáo và đề đạt ý kiến của mình với Tổng bộ Đảng Tân Việt về việc tổ chức một đảng cộng sản. Tháng 12/1929, ông trở sang Quảng Châu bàn việc hợp nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 5/1930, ông trở về nước, 4 tháng sau lại sang Trung Quốc, nhưng đã bị bắt ở Hải Phòng trước khi xuống tàu.
Ngày 21/11/1930, Phan Đăng Lưu bị Tòa án Nam triều ở Vinh đưa ra xử cùng 60 đảng viên Đảng Tân Việt và bị kết án ba năm tù khổ sai, đày đi Buôn Ma Thuật. Trong tù, ông vẫn tích cực hoạt động, vận động anh em học tiếng Êđê để thực hiện công tác bình vận, viết báo ra ngoài vạch trần sự bào tạo của thực dân Pháp. Vì vậy, ông đã bị tăng án lên 5 năm tù khổ sai, cấm cố tại xà lim, bị liệt vào "loại nguy hiểm"
Giữa năm 1936, ông được ra tù, nhưng lại bị quản thúc ở Huế. Ông lại tiếp tục hoạt động cách mạng và đã có những đóng góp xuất sắc vào cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì như phong trào Đông Dương đại hội (1936), "đón" Gô-đa, Hội nghị báo giới Trung Kì. Phan Đăng Lưu trực tiếp chỉ đạo các báo Sông Hương tục bản, Dân; đồng thời viết nhiều sách lí luận chính trị, nghiên cứu văn học.
Tháng 11/1939, ông được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, được phân công chỉ đạo phong trào Nam Kì.
Tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Kì họp, đề ra chủ trương khởi nghĩa. Lấy tư cách là đại diện Trung ương đến dự, ông khuyên xứ ủy hãy chờ xin chỉ thị của Trung ương. Sau đó, ông ra dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1940 và được chỉ thị hoãn khởi nghĩa Nam Kì.
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Phan Đăng Lưu trên đường về Nam đã bị mật thám bắt vào đêm 20/11/1940 nên chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương về việc hoãn khởi nghĩa, và vậy khởi nghĩa Nam Kì đã nổ ra ngày 23/11/1940.
Trong phiên tòa xử tại Sài Gòn ngày 3/3/1941, Phan Đăng Lưu bị thực dân Pháp kết án tử hình. Ngày 26/8/1941, ông cùng các đồng chí của mình đã bị xử bắn tại Bà Điểm (Hoóc Môn, Gia Định)
(Theo: Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh(Chủ biên), từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam)
Không có nhận xét nào...