Bà sinh năm 1910, tại xã Vĩnh Yên thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, bà được kết nạp vào Đảng, được phân công phụ trách tuyên truyền huấn luyện đảng viên ở Trường Thi, Bến Thuỷ, rồi sang Hương Cảng (Trung Quốc) làm việc ở văn phòng chi nhánh Đông Phương bộ của Quốc Tế Cộng sản.
Do yêu cầu công tác liên lạc quốc tế, bà kiên trì học tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc, nhiều lần mưu trí vượt lưới vây mật thám, hoàn thành nhiệm vụ.
Năm 1931, bà bị bắt ở Hương Cảng, bị mật thám tra tấn rất dã man. Năm 1935, sau khi ra khỏi tù, bà được cử làm đại biểu chính thức tham dự Đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng sản tại Mátxcơva và vào học tại trường đại học Phương Đông.
Năm 1936, bà về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc Tế Cộng sản cho Ban lãnh đạo Hải ngoại, sau đó được cử vào xứ ủy Nam Kì, trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, cùng một số đồng chí khác lãnh đạo phong trào cách mạng 1936 - 1939. Bà đã có những đóng góp lớn trong việc lãnh đạo phong trào công nhân, phụ nữ và đấu tranh chống tư tưởng tả khuynh.
Năm 1940, Xứ ủy Nam Kì chủ trương khởi nghĩa. Họp xong thì bà bị bắt, cùng chồng là Lê Hồng Phong và em gái là Nguyễn Thị Quang Thái.
Biết bà là cán bộ quan trọng, địch dùng mọi cách để ra tấn khai thác thông tin, nhưng không có kết quả. Chúng đưa bà về giam ở Khám Lớn Sài Gòn. Ở đây bà vẫn tiếp tục liên lạc được với các đồng chí ở bên ngoài tiếp tục lãnh đạo đấu tranh.
Ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kì bùng nổ. Quân thù vin vào cuộc khởi nghĩa để kết án bà và Lê Hồng Phong. Chúng bố trí để hai người nhận nhau. Không mắc mưu địch, mặc dù đã lâu không gặp mặt chồng, bà ghìm giữ tình cảm, nói với giặc: "Tôi không biết người này".
Ngày 26/8/1941, thực dân Pháp đã xử bắn bà tại Hóoc Môn.
(Theo: Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh(Chủ biên), từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam)
Năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, bà được kết nạp vào Đảng, được phân công phụ trách tuyên truyền huấn luyện đảng viên ở Trường Thi, Bến Thuỷ, rồi sang Hương Cảng (Trung Quốc) làm việc ở văn phòng chi nhánh Đông Phương bộ của Quốc Tế Cộng sản.
Do yêu cầu công tác liên lạc quốc tế, bà kiên trì học tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc, nhiều lần mưu trí vượt lưới vây mật thám, hoàn thành nhiệm vụ.
Năm 1931, bà bị bắt ở Hương Cảng, bị mật thám tra tấn rất dã man. Năm 1935, sau khi ra khỏi tù, bà được cử làm đại biểu chính thức tham dự Đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng sản tại Mátxcơva và vào học tại trường đại học Phương Đông.
Năm 1936, bà về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc Tế Cộng sản cho Ban lãnh đạo Hải ngoại, sau đó được cử vào xứ ủy Nam Kì, trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, cùng một số đồng chí khác lãnh đạo phong trào cách mạng 1936 - 1939. Bà đã có những đóng góp lớn trong việc lãnh đạo phong trào công nhân, phụ nữ và đấu tranh chống tư tưởng tả khuynh.
Năm 1940, Xứ ủy Nam Kì chủ trương khởi nghĩa. Họp xong thì bà bị bắt, cùng chồng là Lê Hồng Phong và em gái là Nguyễn Thị Quang Thái.
Biết bà là cán bộ quan trọng, địch dùng mọi cách để ra tấn khai thác thông tin, nhưng không có kết quả. Chúng đưa bà về giam ở Khám Lớn Sài Gòn. Ở đây bà vẫn tiếp tục liên lạc được với các đồng chí ở bên ngoài tiếp tục lãnh đạo đấu tranh.
Ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kì bùng nổ. Quân thù vin vào cuộc khởi nghĩa để kết án bà và Lê Hồng Phong. Chúng bố trí để hai người nhận nhau. Không mắc mưu địch, mặc dù đã lâu không gặp mặt chồng, bà ghìm giữ tình cảm, nói với giặc: "Tôi không biết người này".
Ngày 26/8/1941, thực dân Pháp đã xử bắn bà tại Hóoc Môn.
(Theo: Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh(Chủ biên), từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam)
Không có nhận xét nào...