Lê Hồng Phong sinh năm 1902, trong một gia đình nông dân lao động tại làng Thông Lạng, nay xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Lớn lên Lê Hồng Phong làm thư kí cho một hiệu buôn, rồi làm công nhân cho nhà máy diêm Vinh để kiếm sống. Chính ở đây ông đã được giác ngộ cách mạng.
Đầu năm 19424, ông cùng Phạm Hồng Thái sang Thái Lan, rồi TRung Quốc để liên lạc với cách mạng. Ít lâu sau ông được kết nạp vào tổ chức Tâm tâm xã, rồi gia nhập Cộng sản đoàn, nòng cốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được Nguyễn Ái Quốc huấn luyện về chủ nghĩa Mác - Lênin. Ông được gửi vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) và Trường Không quân ở Liên Xô, tiếp đó vào học tại Trường Đại học Phương Đông, nghiên cứu lí luận cách mạng (10/1928).
Cuối năm 1931 ông lên đường về nước trong nước để củng cố cơ sở Đảng còn lại sau cuộc khủng bố dã man của thực dân Pháp (930 - 1931).
Năm 1934, Ban lãnh đạo Hải ngoại do ông phụ trách hoạt động rất tích cực, vì thế, không bao lâu phong trào cách mạng trong nước phục hồi dần, ông là Trưởng đoàn đại biểu ta sang Liên Xô dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7/1935). Cùng thời kì này, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc), Lê Hồng Phong được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, giữ cương vị Tổng bí thứ Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3/1935). Năm 1936, ông về Trung Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương, mở đầu thời kì mới của cách mạng Việt Nam - thời kì dân chủ.
Cuối năm 1937 Lê Hồng Phong về Sài Gòn, Chợ Lớn cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Lúc này, vợ ông (Nguyễn Thị Minh Khai) là Bí thư Thành ủy Sài Gòn.
Tháng 6/1939, Lê Hồng Phong bị địch bắt, kẻ thù dùng mọi cực hình tra tấn ông nhưng không có kết quả. Vì không có chứng cứ đê buộc tội, cuối cùng, chúng kết án ông 6 tháng tù về tội mang căn cước giả. Hết hạn tù, ông bị đưa về quê để quản thúc.
Ngày 29/9/1939, ông lại bị bắt lần thứ hai tại quê nhà rồi bị đưa vào giam ở Khám Lớn (Sài Gòn). Khởi nghĩa Nam Kì bùng nổ ( 11/1940), thực dân Pháp muốn nhân dịp này để giết ông nhưng không có chứng cứ để buộc tội nên đành phải kết án ông 5 năm tù, đày ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo biết Lê Hồng Phong là nhân vật quan trọng của Đảng, thực dân Pháp tìm mọi cách để giết hại ông, chúng tra tấn ông vô cùng dã man và nhốt trong hầm tối. Ông qua đời 5/9/1942.
(Theo: Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh(Chủ biên), từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam)
Đầu năm 19424, ông cùng Phạm Hồng Thái sang Thái Lan, rồi TRung Quốc để liên lạc với cách mạng. Ít lâu sau ông được kết nạp vào tổ chức Tâm tâm xã, rồi gia nhập Cộng sản đoàn, nòng cốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được Nguyễn Ái Quốc huấn luyện về chủ nghĩa Mác - Lênin. Ông được gửi vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) và Trường Không quân ở Liên Xô, tiếp đó vào học tại Trường Đại học Phương Đông, nghiên cứu lí luận cách mạng (10/1928).
Cuối năm 1931 ông lên đường về nước trong nước để củng cố cơ sở Đảng còn lại sau cuộc khủng bố dã man của thực dân Pháp (930 - 1931).
Năm 1934, Ban lãnh đạo Hải ngoại do ông phụ trách hoạt động rất tích cực, vì thế, không bao lâu phong trào cách mạng trong nước phục hồi dần, ông là Trưởng đoàn đại biểu ta sang Liên Xô dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7/1935). Cùng thời kì này, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc), Lê Hồng Phong được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, giữ cương vị Tổng bí thứ Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3/1935). Năm 1936, ông về Trung Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương, mở đầu thời kì mới của cách mạng Việt Nam - thời kì dân chủ.
Cuối năm 1937 Lê Hồng Phong về Sài Gòn, Chợ Lớn cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Lúc này, vợ ông (Nguyễn Thị Minh Khai) là Bí thư Thành ủy Sài Gòn.
Tháng 6/1939, Lê Hồng Phong bị địch bắt, kẻ thù dùng mọi cực hình tra tấn ông nhưng không có kết quả. Vì không có chứng cứ đê buộc tội, cuối cùng, chúng kết án ông 6 tháng tù về tội mang căn cước giả. Hết hạn tù, ông bị đưa về quê để quản thúc.
Ngày 29/9/1939, ông lại bị bắt lần thứ hai tại quê nhà rồi bị đưa vào giam ở Khám Lớn (Sài Gòn). Khởi nghĩa Nam Kì bùng nổ ( 11/1940), thực dân Pháp muốn nhân dịp này để giết ông nhưng không có chứng cứ để buộc tội nên đành phải kết án ông 5 năm tù, đày ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo biết Lê Hồng Phong là nhân vật quan trọng của Đảng, thực dân Pháp tìm mọi cách để giết hại ông, chúng tra tấn ông vô cùng dã man và nhốt trong hầm tối. Ông qua đời 5/9/1942.
(Theo: Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh(Chủ biên), từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam)
Không có nhận xét nào...