Sau khi cuộc binh biến ngày 5.7.1885 hoàn toàn thất bại, phụ chánh Nguyễn Văn Tường trở lại Huế, hơn hai tháng sau, bị Pháp đày ra đảo Tahiti và chết ở đó ngày 30.7.1886. Phụ chánh Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, rồi Quảng Bình, ban hịch Cần vương , mưu cuộc kháng chiến lâu dài rồi tìm đường sang Trung Quốc, định cầu viện nhà Thanh, nhưng cuối cùng đành kéo dài những năm tháng còn lại trong cảnh sống cô quạnh và qua đời nơi xứ lạ quê người.
***
Suốt thời gian làm việc dưới triều Tự Đức, Tôn Thất Thuyết là một quan lại khá thành đạt. Năm 34 tuổi (1869), từ chức vụ Án sát Hải Dương, ông được cử làm Tán tương đạo quân thứ Thái Nguyên, và 14 năm sau (1883), được nhà vua tín nhiệm vào cương vị phụ chánh đại thần, quyền uy bậc nhất triều đình. Tuy nhiên, xem ra chức vụ này phù hợp với một văn quan có tài ngoại giao như Nguyễn Văn Tường hơn là Tôn Thất Thuyết.
Sau sự biến “thất thủ kinh đô”, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi và Tam cung rời Huế, trực chỉ Quảng Trị. Song sau khi nhận thấy đồn Tân Sở không thể chống lại sức tấn công của quân Pháp, Thuyết quyết định đưa vua Hàm Nghi ra Bắc. Tuy nhiên, Pháp dự liệu trước điều này, bố trí quân ngăn chặn đường giao thông về phía Bắc, đoàn xa giá phải ngược dòng sông Gianh, xây dựng một chiến khu ở đây để trường kỳ kháng Pháp. Trong thời gian này, đã có một sự sắp xếp để Tôn Thất Thuyết sang Tàu cẩu viện với Tổng đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh. Khoảng tháng 2.1886, một cuộc đụng độ lớn diễn ra giữa quân triều đình và quân Pháp, phía Việt bị thiệt hại nặng nề. Từ đó, việc bảo vệ vua Hàm Nghi do hai con ông Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp đảm trách. Phần phụ chánh Tôn Thất Thuyết, sau trận đánh trên, đã cùng khoảng 50 tùy tùng theo đường sơn đạo đến tạm trú ở một vùng rừng núi thuộc huyện Cẩm Thúy, tỉnh Thanh Hóa. Sự kiện này được Cơ mật viện triều đình Huế xác nhận trong một văn thư gửi cho quyền Khâm sứ Pháp tại Huế. Một bức thư khác đề ngày 22.4.1886 của cố đạo Trần Lục (Pháp viết là Père Six) ở Phát Diệm cũng báo cho quân Pháp là ông Thuyết ngủ đêm tại nhà Cầm Bá Thước ở làng Trinh Vạn và sau đó ngược dòng sông Mã, cư ngụ nhiều ngày ở Điền Lư, tại nhà Cai Mão, một lãnh tụ dân tộc Mường.
Khoảng tháng 6.1886, Tôn Thất Thuyết ngược sông Đà lên Lai Châu, ngã bệnh nặng khi cư ngụ trong nhà Điêu Văn Trì. Mặc dù biết rằng bắt Thuyết hay chỉ điểm cho Pháp bắt ông sẽ được thưởng 1.000 nén vàng, song con người nhân hậu này đã không làm thế. Ông săn sóc, tìm cách chữa chạy cho Thuyết trong suốt 5 tháng trời với một lòng tận tụy hiếm có. Tết Đinh Hợi (1887), Thuyết cùng tùy tùng được Điêu Văn Trì hướng dẫn rời Lai Châu, đi qua Bình Lữ, Ba Xá, Mang Hao, đến Vân Nam phủ, trên đất Trung Quốc. Tại đây, ông được Điêu Văn Trì giới thiệu với Tổng đốc Vân Nam Sầm Công Bảo. Theo ông Nguyễn Viết Tôn, một võ cử nhân từng làm việc ở Bộ Binh, tháp tùng Thuyết đến năm 1892, thì buổi tiếp kiến tại phủ Tổng đốc Vân Nam diễn ra khá trọng thể. Tôn Thất Thuyết được tổng đốc Sầm Công Bảo thưởng cho 500 nén bạc, còn Điêu Văn Trì vẫn trước sau một lòng với ông, lo tìm cho ông một chỗ ở an toàn. Khi mọi việc đã tạm ổn, Trì từ biệt trở về Việt Nam và Thuyết đã cho người bám theo và giết chết Trì để yên tâm là không còn ai biết được chỗ ở của mình. Chi tiết gây sốc trên được nhà nghiên cứu sử người Pháp A. Delvaux ghi rõ trong một bài viết dài đăng trong Tập san Đô thành Hiếu cổ (BAVH) số 3 năm 1941, trang 289, người viết bài này xin kể lại với tất cả sự dè dặt và mong mỏi có những tư liệu xác đáng hơn để phản bác lại.
Ít lâu sau, Tôn Thất Thuyết được phép đến Quảng Đông, trên đường đi có một viên chức của phủ Tổng đốc đi kèm. Song tại đây, ông chưa bao giờ được hội kiến với Tổng đốc Lưỡng Quảng. Một ngày nọ, Đề đốc Trần Xuân Soạn từ Việt Nam sang Quảng Đông gặp Thuyết để bàn bạc những công việc sắp tới. Trong thời gian này, chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục truy tầm ông. Một bức thư đề ngày 26.3.1888 của Tòa Lãnh sự Pháp ở Quảng Đông gửi cho Toàn quyền Đông dương Richaud ghi nhận “sự hiện diện tại nhà Lưu Vĩnh Phúc gần Sán Đầu của một người An Nam mà người ta nghi là Thuyết”. Họ Lưu là người cầm đầu đạo quân Cờ Đen từng cướp phá trên đất nước ta, về sau đầu phục quân nhà Nguyễn dưới quyền Hoàng Tá Viêm và lập được nhiều công lớn, trong đó có công tiêu diệt hai sĩ quan cao cấp Pháp là đại úy Francis Garnier và đại tá Henri Rivière. Trên thực tế, theo những chi tiết nêu trong bức thư, thì người đó không phải Tôn Thất Thuyết mà là Đề đốc Trần Xuân Soạn. Cuối tháng 7.1889, nhiều cuộc báo động giả diễn ra ở Lạng Sơn rồi Cao Bằng, liên quan đến sự “hiện diện” của Thuyết trong khu vực này. Tuy nhiên, trên thực tế, vào thời điểm đó, một phái viên của tướng Bégin bắt gặp ông sống ở đường Cửa Nam, tỉnh Quảng Đông. Đề đốc Trần Xuân Soạn cùng Sơn phòng phó sứ Ngụy Khắc Kiệu gặp được một trong những phụ tá của Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhưng viên chức này nại lý do đã có một thỏa ước đã ký kết giữa Pháp và Trung Hoa (hòa ước Thiên Tân – 1885), nên từ chối lời yêu cầu hỗ trợ việc kháng Pháp, và chỉ hứa giúp phương tiện để họ quay về Việt Nam. Sau nhiều lần được tòa lãnh sự Pháp tại Quảng Đông – có sự hậu thuẫn của Đại sứ quán Pháp tại Bắc Kinh – yêu cầu, Tổng đốc Lưỡng Quảng đã ban hành một văn bản đề ngày 8.11.1889 với nội dung như sau:”Đôi lúc, viên quan An Nam Nguyễn Phúc Thuyết với khoảng 10 người An Nam khác chuyển đến bản chức một kiến nghị phàn nàn về sự đối xử không tốt của người Pháp và thỉnh cầu bản chức tấu trình hoàng thượng rõ. Điều phàn nàn của họ bị bác bỏ. Bản chức đã lệnh cho phòng Từ thiện cung cấp cho họ lộ phí để trở về xứ sở và vì lý do họ cho biết là không quay về được, bản chức chuẩn cấp cho họ một khoản trợ cấp hàng tháng là 57 nén bạc để sinh sống và giao họ cho viên quan phụ trách đội bảo vệ thành phố giám sát… Vì sự giám sát ở một thành phố rộng lớn như Quảng Đông không phải là không khó khăn, bản chức cho đưa họ đến thi trấn Lo-Ting-Tchéou, đặt dưới sự giám sát của các quan văn võ thuộc thị trấn này. Viên tri huyện phải trích ra hàng tháng 57 nén bạc từ các khoản thu thuế quế. Con số người An Nam không được tăng lên vì bất cứ lý do nào. Họ phải từ bỏ những ước vọng ngông cuồng. Ý đồ gây rối chỉ đưa họ đến tai họa. Cấm chỉ tuyệt đối việc rời khỏi thị trấn…” (LN trích dịch) (tài liệu lưu tại văn khố Tòa khâm sứ Huế). Nội dung văn bản trên cho thấy một mặt nhà cầm quyền Quảng Đông tỏ rõ tính nhân đạo trong cách hành xử, không bắt Tôn Thất Thuyết cùng tùy tùng giao cho Pháp, mặt khác cũng nhằm xoa dịu phía Pháp luôn lưu ý họ về tinh thần của hòa ước Thiên Tân. Vào thời điểm trên, ở lại Lo-Ting-Tchéou có Trần Xuân Soạn, Ngụy Khắc Kiệu và 9 tùy tùng. Tống Duy Tân, một trong những lãnh tụ kháng Pháp tại Thanh Hóa, có đến gặp Tôn Thất Thuyết, ở lại trong 5 tháng, nhưng sau một cuộc tranh luận lớn, bèn bỏ về Việt Nam.
Tháng 2.1891, lệnh từ Quảng Đông cho chuyển Thuyết cùng tùy tùng đến Shau Kwan, gần biên giới Hoa Nam. Chuyến đi kéo dài 18 ngày. Có lẽ do nhiều nỗi thất vọng, từ việc vua Hàm Nghi bị bắt và lưu đày, đến cái chết của cha (Tôn Thất Đính, đi đày chung với Nguyễn Văn Tường) và hai con trai là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thuyết buồn chán, không ra khỏi nhà, ngày ngày làm bạn với á phiện và cư xử thô cục với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiệu, khiến cho hai võ quan này cũng bỏ ra đi. Tháng 4.1891, nhà cầm quyền Pháp nắm được nhiều tấm ảnh chụp hình Thuyết với đoàn tùy tùng bao quanh, trong đó có Nguyễn Viết Tôn. Tháng 8.1891, Toàn quyền Đông Dương De Lanessan chuyển nhiều bức ảnh trên cho tòa Khâm sứ Huế để xác nhận. Tại Hoa Nam, cư dân địa phương gọi Thuyết là “vua An Nam”. Ông cư ngụ suốt 4 năm ở đường Co-Lao-Kai, cạnh nhà một nhân sĩ tên Tsen-Fong- Tseung. Theo một người Pháp tên Fabre, tác giả một quyển sách dày 700 trang nhan đề Film de la vie chinoise (Diễn biến đời sống Trung Hoa), cư ngụ cách chỗ ở của Thuyết 300 mét, thì nhà ở của ông có vẻ hư nát, ít được chăm sóc, người chung quanh gọi là nhà hoang hay nhà ma. Ít ai trông thấy mặt chủ nhân, người giúp việc thì ăn mặc nhếch nhác.
Năm 1897, Tôn Thất Thuyết được triều đình nhà Thanh chuẩn cho một khỏa trợ cấp hàng tháng là 60 nén bạc. Khoản nảy kéo dài cho đến ngày ông mất. Năm Quang Tự thứ 27 (1899), Thuyết – lúc đó có tên Nguyễn Tự Đễ - cưới người vợ góa của một người họ Liêu, về sau không có con cái gì. Cũng vào thời kỳ này, một cú sốc đã xảy ra trong đời sống vô vị của ông: người bạn láng giềng cũ là Tsen-Fong- Tseung mượn của ông 1.500 nén bạc và không trả nổi (có lẽ ngoài khoản trợ cấp của triều đình nhà Thanh, ông còn bạc mang từ Việt Nam sang). Ông đi thưa, Tsen bị bắt giam và chết trong ngục. Vụ này kèm theo nhiều bất như ý khác biến Thuyết thành một người luôn hoang mang, chao đảo, chứng cuồng ngày một nặng hơn. Hậu quả là ông thường kêu khóc, xách gươm chém vào đá tảng ngoài đồng và được người địa phương gọi là “đả thạch ông”.
Tháng 3 năm 1913, Tôn Thất Thuyết bị bệnh, nằm liệt giường và mất ngày 28.6.1913, thọ 78 tuổi. Các viên chức sở tại đến nhà xác thăm ông, việc chôn cất được tiến hành không theo một nghi thức tối thiểu nào.
Suốt thời gian làm việc dưới triều Tự Đức, Tôn Thất Thuyết là một quan lại khá thành đạt. Năm 34 tuổi (1869), từ chức vụ Án sát Hải Dương, ông được cử làm Tán tương đạo quân thứ Thái Nguyên, và 14 năm sau (1883), được nhà vua tín nhiệm vào cương vị phụ chánh đại thần, quyền uy bậc nhất triều đình. Tuy nhiên, xem ra chức vụ này phù hợp với một văn quan có tài ngoại giao như Nguyễn Văn Tường hơn là Tôn Thất Thuyết.
Sau sự biến “thất thủ kinh đô”, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi và Tam cung rời Huế, trực chỉ Quảng Trị. Song sau khi nhận thấy đồn Tân Sở không thể chống lại sức tấn công của quân Pháp, Thuyết quyết định đưa vua Hàm Nghi ra Bắc. Tuy nhiên, Pháp dự liệu trước điều này, bố trí quân ngăn chặn đường giao thông về phía Bắc, đoàn xa giá phải ngược dòng sông Gianh, xây dựng một chiến khu ở đây để trường kỳ kháng Pháp. Trong thời gian này, đã có một sự sắp xếp để Tôn Thất Thuyết sang Tàu cẩu viện với Tổng đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh. Khoảng tháng 2.1886, một cuộc đụng độ lớn diễn ra giữa quân triều đình và quân Pháp, phía Việt bị thiệt hại nặng nề. Từ đó, việc bảo vệ vua Hàm Nghi do hai con ông Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp đảm trách. Phần phụ chánh Tôn Thất Thuyết, sau trận đánh trên, đã cùng khoảng 50 tùy tùng theo đường sơn đạo đến tạm trú ở một vùng rừng núi thuộc huyện Cẩm Thúy, tỉnh Thanh Hóa. Sự kiện này được Cơ mật viện triều đình Huế xác nhận trong một văn thư gửi cho quyền Khâm sứ Pháp tại Huế. Một bức thư khác đề ngày 22.4.1886 của cố đạo Trần Lục (Pháp viết là Père Six) ở Phát Diệm cũng báo cho quân Pháp là ông Thuyết ngủ đêm tại nhà Cầm Bá Thước ở làng Trinh Vạn và sau đó ngược dòng sông Mã, cư ngụ nhiều ngày ở Điền Lư, tại nhà Cai Mão, một lãnh tụ dân tộc Mường.
Khoảng tháng 6.1886, Tôn Thất Thuyết ngược sông Đà lên Lai Châu, ngã bệnh nặng khi cư ngụ trong nhà Điêu Văn Trì. Mặc dù biết rằng bắt Thuyết hay chỉ điểm cho Pháp bắt ông sẽ được thưởng 1.000 nén vàng, song con người nhân hậu này đã không làm thế. Ông săn sóc, tìm cách chữa chạy cho Thuyết trong suốt 5 tháng trời với một lòng tận tụy hiếm có. Tết Đinh Hợi (1887), Thuyết cùng tùy tùng được Điêu Văn Trì hướng dẫn rời Lai Châu, đi qua Bình Lữ, Ba Xá, Mang Hao, đến Vân Nam phủ, trên đất Trung Quốc. Tại đây, ông được Điêu Văn Trì giới thiệu với Tổng đốc Vân Nam Sầm Công Bảo. Theo ông Nguyễn Viết Tôn, một võ cử nhân từng làm việc ở Bộ Binh, tháp tùng Thuyết đến năm 1892, thì buổi tiếp kiến tại phủ Tổng đốc Vân Nam diễn ra khá trọng thể. Tôn Thất Thuyết được tổng đốc Sầm Công Bảo thưởng cho 500 nén bạc, còn Điêu Văn Trì vẫn trước sau một lòng với ông, lo tìm cho ông một chỗ ở an toàn. Khi mọi việc đã tạm ổn, Trì từ biệt trở về Việt Nam và Thuyết đã cho người bám theo và giết chết Trì để yên tâm là không còn ai biết được chỗ ở của mình. Chi tiết gây sốc trên được nhà nghiên cứu sử người Pháp A. Delvaux ghi rõ trong một bài viết dài đăng trong Tập san Đô thành Hiếu cổ (BAVH) số 3 năm 1941, trang 289, người viết bài này xin kể lại với tất cả sự dè dặt và mong mỏi có những tư liệu xác đáng hơn để phản bác lại.
Ít lâu sau, Tôn Thất Thuyết được phép đến Quảng Đông, trên đường đi có một viên chức của phủ Tổng đốc đi kèm. Song tại đây, ông chưa bao giờ được hội kiến với Tổng đốc Lưỡng Quảng. Một ngày nọ, Đề đốc Trần Xuân Soạn từ Việt Nam sang Quảng Đông gặp Thuyết để bàn bạc những công việc sắp tới. Trong thời gian này, chính quyền thuộc địa Pháp vẫn tiếp tục truy tầm ông. Một bức thư đề ngày 26.3.1888 của Tòa Lãnh sự Pháp ở Quảng Đông gửi cho Toàn quyền Đông dương Richaud ghi nhận “sự hiện diện tại nhà Lưu Vĩnh Phúc gần Sán Đầu của một người An Nam mà người ta nghi là Thuyết”. Họ Lưu là người cầm đầu đạo quân Cờ Đen từng cướp phá trên đất nước ta, về sau đầu phục quân nhà Nguyễn dưới quyền Hoàng Tá Viêm và lập được nhiều công lớn, trong đó có công tiêu diệt hai sĩ quan cao cấp Pháp là đại úy Francis Garnier và đại tá Henri Rivière. Trên thực tế, theo những chi tiết nêu trong bức thư, thì người đó không phải Tôn Thất Thuyết mà là Đề đốc Trần Xuân Soạn. Cuối tháng 7.1889, nhiều cuộc báo động giả diễn ra ở Lạng Sơn rồi Cao Bằng, liên quan đến sự “hiện diện” của Thuyết trong khu vực này. Tuy nhiên, trên thực tế, vào thời điểm đó, một phái viên của tướng Bégin bắt gặp ông sống ở đường Cửa Nam, tỉnh Quảng Đông. Đề đốc Trần Xuân Soạn cùng Sơn phòng phó sứ Ngụy Khắc Kiệu gặp được một trong những phụ tá của Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhưng viên chức này nại lý do đã có một thỏa ước đã ký kết giữa Pháp và Trung Hoa (hòa ước Thiên Tân – 1885), nên từ chối lời yêu cầu hỗ trợ việc kháng Pháp, và chỉ hứa giúp phương tiện để họ quay về Việt Nam. Sau nhiều lần được tòa lãnh sự Pháp tại Quảng Đông – có sự hậu thuẫn của Đại sứ quán Pháp tại Bắc Kinh – yêu cầu, Tổng đốc Lưỡng Quảng đã ban hành một văn bản đề ngày 8.11.1889 với nội dung như sau:”Đôi lúc, viên quan An Nam Nguyễn Phúc Thuyết với khoảng 10 người An Nam khác chuyển đến bản chức một kiến nghị phàn nàn về sự đối xử không tốt của người Pháp và thỉnh cầu bản chức tấu trình hoàng thượng rõ. Điều phàn nàn của họ bị bác bỏ. Bản chức đã lệnh cho phòng Từ thiện cung cấp cho họ lộ phí để trở về xứ sở và vì lý do họ cho biết là không quay về được, bản chức chuẩn cấp cho họ một khoản trợ cấp hàng tháng là 57 nén bạc để sinh sống và giao họ cho viên quan phụ trách đội bảo vệ thành phố giám sát… Vì sự giám sát ở một thành phố rộng lớn như Quảng Đông không phải là không khó khăn, bản chức cho đưa họ đến thi trấn Lo-Ting-Tchéou, đặt dưới sự giám sát của các quan văn võ thuộc thị trấn này. Viên tri huyện phải trích ra hàng tháng 57 nén bạc từ các khoản thu thuế quế. Con số người An Nam không được tăng lên vì bất cứ lý do nào. Họ phải từ bỏ những ước vọng ngông cuồng. Ý đồ gây rối chỉ đưa họ đến tai họa. Cấm chỉ tuyệt đối việc rời khỏi thị trấn…” (LN trích dịch) (tài liệu lưu tại văn khố Tòa khâm sứ Huế). Nội dung văn bản trên cho thấy một mặt nhà cầm quyền Quảng Đông tỏ rõ tính nhân đạo trong cách hành xử, không bắt Tôn Thất Thuyết cùng tùy tùng giao cho Pháp, mặt khác cũng nhằm xoa dịu phía Pháp luôn lưu ý họ về tinh thần của hòa ước Thiên Tân. Vào thời điểm trên, ở lại Lo-Ting-Tchéou có Trần Xuân Soạn, Ngụy Khắc Kiệu và 9 tùy tùng. Tống Duy Tân, một trong những lãnh tụ kháng Pháp tại Thanh Hóa, có đến gặp Tôn Thất Thuyết, ở lại trong 5 tháng, nhưng sau một cuộc tranh luận lớn, bèn bỏ về Việt Nam.
Tháng 2.1891, lệnh từ Quảng Đông cho chuyển Thuyết cùng tùy tùng đến Shau Kwan, gần biên giới Hoa Nam. Chuyến đi kéo dài 18 ngày. Có lẽ do nhiều nỗi thất vọng, từ việc vua Hàm Nghi bị bắt và lưu đày, đến cái chết của cha (Tôn Thất Đính, đi đày chung với Nguyễn Văn Tường) và hai con trai là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thuyết buồn chán, không ra khỏi nhà, ngày ngày làm bạn với á phiện và cư xử thô cục với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiệu, khiến cho hai võ quan này cũng bỏ ra đi. Tháng 4.1891, nhà cầm quyền Pháp nắm được nhiều tấm ảnh chụp hình Thuyết với đoàn tùy tùng bao quanh, trong đó có Nguyễn Viết Tôn. Tháng 8.1891, Toàn quyền Đông Dương De Lanessan chuyển nhiều bức ảnh trên cho tòa Khâm sứ Huế để xác nhận. Tại Hoa Nam, cư dân địa phương gọi Thuyết là “vua An Nam”. Ông cư ngụ suốt 4 năm ở đường Co-Lao-Kai, cạnh nhà một nhân sĩ tên Tsen-Fong- Tseung. Theo một người Pháp tên Fabre, tác giả một quyển sách dày 700 trang nhan đề Film de la vie chinoise (Diễn biến đời sống Trung Hoa), cư ngụ cách chỗ ở của Thuyết 300 mét, thì nhà ở của ông có vẻ hư nát, ít được chăm sóc, người chung quanh gọi là nhà hoang hay nhà ma. Ít ai trông thấy mặt chủ nhân, người giúp việc thì ăn mặc nhếch nhác.
Năm 1897, Tôn Thất Thuyết được triều đình nhà Thanh chuẩn cho một khỏa trợ cấp hàng tháng là 60 nén bạc. Khoản nảy kéo dài cho đến ngày ông mất. Năm Quang Tự thứ 27 (1899), Thuyết – lúc đó có tên Nguyễn Tự Đễ - cưới người vợ góa của một người họ Liêu, về sau không có con cái gì. Cũng vào thời kỳ này, một cú sốc đã xảy ra trong đời sống vô vị của ông: người bạn láng giềng cũ là Tsen-Fong- Tseung mượn của ông 1.500 nén bạc và không trả nổi (có lẽ ngoài khoản trợ cấp của triều đình nhà Thanh, ông còn bạc mang từ Việt Nam sang). Ông đi thưa, Tsen bị bắt giam và chết trong ngục. Vụ này kèm theo nhiều bất như ý khác biến Thuyết thành một người luôn hoang mang, chao đảo, chứng cuồng ngày một nặng hơn. Hậu quả là ông thường kêu khóc, xách gươm chém vào đá tảng ngoài đồng và được người địa phương gọi là “đả thạch ông”.
Tháng 3 năm 1913, Tôn Thất Thuyết bị bệnh, nằm liệt giường và mất ngày 28.6.1913, thọ 78 tuổi. Các viên chức sở tại đến nhà xác thăm ông, việc chôn cất được tiến hành không theo một nghi thức tối thiểu nào.
Theo Lê Nguyễn - tác giả cuốn "Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc"
Không có nhận xét nào...