Năm 1962, nhà nghiên cứu Hoài Nam, trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, cho biết Đề Thám sinh năm 1846, trước khi cải từ họ Trương sang họ Hoàng, ông còn mang họ Đoàn. Kể từ đó, hầu hết các tài liệu viết về Đề Thám đều cho rằng Hoàng Hoa Thám có gốc họ Trương, hồi bé tên Trương Văn Nghĩa, sau đổi thành Trương Văn Thám, quê ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; sau di cư lên Sơn Tây, Phú Thọ, Hòa Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, rồi đến Yên Thế (Bắc Giang). Cha ông là Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Sinh thời, cha mẹ ông đều là những người rất trọng nghĩa khí; cả hai đều gia nhập cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nông Văn Vân ở Sơn Tây.
Gần đây, Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm-trong một bài viết công bố trên tạp chí Xưa và Nay đã “Căn cứ vào Đại Nam thực lục”-Chính biên, Gia phả họ Bùi (Thái Bình) và Gia phả họ Đoàn (Dị Chế, Tiên Lữ, Hưng Yên) cho biết Trương Thận (cha của Đề Thám) chỉ là biệt danh của một thủ lĩnh nông dân nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tên thật là Đoàn Danh Lại, người làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Đoàn Danh Lại bị anh em Bùi Duy Kỳ bắt giết rồi đem nộp triều đình vào tháng 9 năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17 (10/1836). Cũng theo Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm, Đoàn Danh Lại có hai con trai: con lớn tên là Đoàn Văn Lễ (sau cải là Trương Văn Leo), con thứ là Đoàn Văn Nghĩa (tức Trương Văn Nghĩa, tức Đề Thám). Đoàn Văn Nghĩa sinh được mấy tháng thì bố mẹ bị giết hại. (luận điểm này được Khổng Đức Thiêm khẳng định lại trong tác phẩm Hoàng Hoa Thám 1836-1913).
Và sự nghiệp: Hoàng Hoa Thám với các cuộc khởi nghĩa chống Pháp:
Năm 26 tuổi, Hoàng Hoa Thám tham gia cuộc khởi nghĩa của Cai Vàng (1862-1864); năm 34 tuổi lại gia nhập cuộc khởi nghĩa Đại Trận (1870-1875) và được gọi là Đề Dương. Khi Pháp tiến đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (11/1873), Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Xuân Soạn, lãnh binh Bắc Ninh. Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 (4/1884), ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Hữu Lũng, Lạng Sơn (1882-1888). Cuối năm 1885, ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế đứng dưới cờ của Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một danh tướng lĩnh có tài của Đề Nắm.
Tháng 4/1892, Đề Nắm bị thủ hạ là Đề Sặt phản bội sát hại thì Hoàng Hoa Thám tiếp tục hoạt động, lập căn cứ ở Yên Thế và trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào với biệt danh "Hùm xám Yên Thế". Trong gần 30 năm lãnh đạo, ông đã tổ chức đánh nhiều trận, tiêu biểu là các trận Luộc Hạ, Cao Thượng (10/1890), thung lũng Hố Chuối (12/1890), Đồng Hom (2/1892) và trực tiếp đương đầu với các Thiếu tướng Godin, Thiếu tướng Voyron và Đại tá Frey.
Trong hai năm 1893, 1894 quân Pháp, bằng mọi thủ đoạn từ phủ dụ đến tập trung lực lượng bao vây, đàn áp, tàn sát nhằm dập tắt cuộc khởi nghĩa Yên Thến nhưng Hoàng Hoa Thám, bằng chiến thuật du kích tài tình đã gây cho quân Pháp những tổn thất nặng nề và tránh được những thương vong, mất mát cho nghĩa quân.
Cuộc hòa hoãn lần thứ nhất (1894):
Xét thấy chưa thể dập tắt được cuộc khởi nghĩa, tháng 10/1894 quân Pháp đã chấp nhận giảng hòa, cắt nhượng cho nghĩa quân bốn tổng thuộc Yên Thế. Nhưng chỉ vài tháng sau (10/1895) chúng đã bội ước, huy động hàng ngàn quân, có đại bác yểm trợ (do Đại tá Galliéni chỉ huy) mở những cuộc tấn công trên quy mô lớn vào Yên Thế và treo thưởng 30.000franc cho kẻ nào bắt được Đề Thám. Không đàn áp được phong trào, Pháp tiếp tục bao vây, truy đuổi, tiêu diệt cả lực lượng của Kỳ Đồng đang khai thác đồn điền ở Yên Thế để nghĩa quân mất chỗ dựa cả về vật chất lẫn tinh thần, buộc nghĩa quân phải chấp nhận cuộc giảng hòa lần thứ hai vào năm 1897.
Cuộc hòa hoãn lần thứ hai (1897):
Trong hơn 10 năm hòa hoãn (từ 12/1897 đến 29/1/1909), nghĩa quân Yên Thế đã có những bước phát triển mới: Địa bàn hoạt động được mở rộng từ trung du đến đồng bằng (kể cả vùng Hà Nội). Hoàng Hoa Thám tổ chức ra "đảng Nghĩa Hưng" và "Trung Châu ứng nghĩa đạo" làm nòng cốt. Đặc biệt, Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27/6/1908 trong trại lính pháo thủ tại Hà Nội mà trước đây quen gọi là vụ Hà thành đầu độc, làm chấn động khắp cả nước. Ngoài ra, Hoàng Hoa Thám còn xúc tiến xây dựng Phồn Xương thành căn cứ kháng chiến, bí mật liên hệ với lực lượng yêu nước ở bên ngoài. Nhiều sĩ phu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... đã gặp gỡ Hoàng Hoa Thám bàn kế hoạch phối hợp hành động, mở rộng hoạt động xuống đồng bằng (và trong thời gian này, một cánh quân thuộc Trung Quốc Cách mạng Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn cũng đã được Đề Thám chu cấp, giúp đỡ).
Lực lượng của cuộc khởi nghĩa bị suy yếu:
Ngày 29/1/1909, Thống sứ Bắc Kỳ đã huy động một lực lượng lớn chưa từng có gồm 15.000 quân chính quy, lính khố xanh cùng 400 lính dõng (do Đại tá Bataille chỉ huy) tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế. Đề Thám vừa tổ chức đánh trả, vừa phải rút lui khỏi Yên Thế để bảo toàn lực lượng. Thế nhưng với một lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân bị tổn thất nặng, trong đó có con trai lớn của Ông là Cả Trọng cũng bị tử thương. Sau khi thoát khỏi vòng vây, Hoàng Hoa Thám chỉ huy lực lượng còn lại phối hợp với các toán nghĩa quân đang có mặt ở Vĩnh Phú tiến hành một cuộc vận động chiến, thôn trang chiến nổi tiếng, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại (hồi tháng 7/1909). Đầu tháng 8/1909, Lê Hoan được tung vào chiến trường. Đề Thám vừa đánh vừa lui về núi Sáng trên dẫy Tam Đảo và đánh thắng một trận quan trọng ở đây. Nhưng từ khi bà Ba Cẩn (vợ ba Đề Thám) và con gái út của Ông là Hoàng Thị Thế bị bắt, lực lượng nghĩa quân giảm sút dần và tới đầu 1910 thì bị tan rã. Đề Thám phải sống ẩn náu trong núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc.
Về cái chết của Hoàng Hoa Thám:
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã chấm dứt vào năm 1913. Có những giả thiết khác nhau về cái chết của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám.
1- Trong những ngày cuối cùng, lực lượng của nghĩa quân ngày càng mỏng, Đề Thám chỉ còn vài thủ hạ bảo vệ bên cạnh và liên tục phải di chuyển. Khi ông tới vùng Hố Lẩy, người Pháp đã bố trí 3 người đến trá hàng để tiếp cận và hạ sát ông cùng 2 thủ hạ vào sáng mồng 5 Tết năm Quý Sửu (tức ngày 10/2/1913), sau đó mang thủ cấp ông ra bêu ở Nhã Nam (Phủ đường Yên Thế) để thị uy dân chúng. Tuy nhiên, có ý kiến nghi ngờ về giả thiết này khi viện dẫn 3 thông tin khác:
1.1-Nhà cầm quyền Pháp chỉ cho bêu đầu 2 ngày rồi vội cho tẩm dầu đốt thành tro đem đổ xuống ao và không cho công bố ảnh chụp thủ cấp Hoàng Hoa Thám và các thủ hạ bị sát hại.
1.2- Theo Lý Đào, một cận vệ cũ của Hoàng Hoa Thám (Lý Đào thường cắt tóc cho Đhoàng Hoa Thám) thì đầu Ông (Hoàng Hoa Thám) có một đường gồ chạy từ trán lên đỉnh, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm. Thế nhưng cái đầu được cho là của Hoàng Hoa Thám đem bêu ở Phủ đường Nhã Nam lại không có đường gồ, cằm cũng không có râu.
1.3- Theo người dân làng Lèo, thủ cấp bị bêu ở phủ đường Nhã Nam là của sư ông trụ trì chùa Lèo, vì sư ông có dung mạo khá giống với Hoàng Hoa Thám và kể từ hôm đó (hôm bêu đầu ở Nhã Nam) thì không thấy sư ông chùa Lèo xuất hiện trở lại (có lẽ sư ông đã bị giết để thế mạng).
2- Hoàng Hoa Thám chạy trốn và sống ẩn dật những ngày cuối đời trong dân chúng, và cuối cùng đã bị chết vì bệnh tật. Một số quan lại thì cho rằng ông mất vào trước thời điểm ngày 10/2/1913; còn dân chúng lại cho rằng ông mất sau thời gian này (?).
Và cho đến hôm nay vẫn chưa xác định được phần mộ Hoàng Hoa Thám. Việc này cũng có nhiều giả thiết khác nhau và cũng chưa có kết luận cuối cùng trong giới nghiên cứu.
Gần đây, Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm-trong một bài viết công bố trên tạp chí Xưa và Nay đã “Căn cứ vào Đại Nam thực lục”-Chính biên, Gia phả họ Bùi (Thái Bình) và Gia phả họ Đoàn (Dị Chế, Tiên Lữ, Hưng Yên) cho biết Trương Thận (cha của Đề Thám) chỉ là biệt danh của một thủ lĩnh nông dân nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tên thật là Đoàn Danh Lại, người làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Đoàn Danh Lại bị anh em Bùi Duy Kỳ bắt giết rồi đem nộp triều đình vào tháng 9 năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17 (10/1836). Cũng theo Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm, Đoàn Danh Lại có hai con trai: con lớn tên là Đoàn Văn Lễ (sau cải là Trương Văn Leo), con thứ là Đoàn Văn Nghĩa (tức Trương Văn Nghĩa, tức Đề Thám). Đoàn Văn Nghĩa sinh được mấy tháng thì bố mẹ bị giết hại. (luận điểm này được Khổng Đức Thiêm khẳng định lại trong tác phẩm Hoàng Hoa Thám 1836-1913).
Và sự nghiệp: Hoàng Hoa Thám với các cuộc khởi nghĩa chống Pháp:
Năm 26 tuổi, Hoàng Hoa Thám tham gia cuộc khởi nghĩa của Cai Vàng (1862-1864); năm 34 tuổi lại gia nhập cuộc khởi nghĩa Đại Trận (1870-1875) và được gọi là Đề Dương. Khi Pháp tiến đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (11/1873), Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Xuân Soạn, lãnh binh Bắc Ninh. Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 (4/1884), ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Hữu Lũng, Lạng Sơn (1882-1888). Cuối năm 1885, ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế đứng dưới cờ của Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một danh tướng lĩnh có tài của Đề Nắm.
Tháng 4/1892, Đề Nắm bị thủ hạ là Đề Sặt phản bội sát hại thì Hoàng Hoa Thám tiếp tục hoạt động, lập căn cứ ở Yên Thế và trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào với biệt danh "Hùm xám Yên Thế". Trong gần 30 năm lãnh đạo, ông đã tổ chức đánh nhiều trận, tiêu biểu là các trận Luộc Hạ, Cao Thượng (10/1890), thung lũng Hố Chuối (12/1890), Đồng Hom (2/1892) và trực tiếp đương đầu với các Thiếu tướng Godin, Thiếu tướng Voyron và Đại tá Frey.
Trong hai năm 1893, 1894 quân Pháp, bằng mọi thủ đoạn từ phủ dụ đến tập trung lực lượng bao vây, đàn áp, tàn sát nhằm dập tắt cuộc khởi nghĩa Yên Thến nhưng Hoàng Hoa Thám, bằng chiến thuật du kích tài tình đã gây cho quân Pháp những tổn thất nặng nề và tránh được những thương vong, mất mát cho nghĩa quân.
Cuộc hòa hoãn lần thứ nhất (1894):
Xét thấy chưa thể dập tắt được cuộc khởi nghĩa, tháng 10/1894 quân Pháp đã chấp nhận giảng hòa, cắt nhượng cho nghĩa quân bốn tổng thuộc Yên Thế. Nhưng chỉ vài tháng sau (10/1895) chúng đã bội ước, huy động hàng ngàn quân, có đại bác yểm trợ (do Đại tá Galliéni chỉ huy) mở những cuộc tấn công trên quy mô lớn vào Yên Thế và treo thưởng 30.000franc cho kẻ nào bắt được Đề Thám. Không đàn áp được phong trào, Pháp tiếp tục bao vây, truy đuổi, tiêu diệt cả lực lượng của Kỳ Đồng đang khai thác đồn điền ở Yên Thế để nghĩa quân mất chỗ dựa cả về vật chất lẫn tinh thần, buộc nghĩa quân phải chấp nhận cuộc giảng hòa lần thứ hai vào năm 1897.
Cuộc hòa hoãn lần thứ hai (1897):
Trong hơn 10 năm hòa hoãn (từ 12/1897 đến 29/1/1909), nghĩa quân Yên Thế đã có những bước phát triển mới: Địa bàn hoạt động được mở rộng từ trung du đến đồng bằng (kể cả vùng Hà Nội). Hoàng Hoa Thám tổ chức ra "đảng Nghĩa Hưng" và "Trung Châu ứng nghĩa đạo" làm nòng cốt. Đặc biệt, Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27/6/1908 trong trại lính pháo thủ tại Hà Nội mà trước đây quen gọi là vụ Hà thành đầu độc, làm chấn động khắp cả nước. Ngoài ra, Hoàng Hoa Thám còn xúc tiến xây dựng Phồn Xương thành căn cứ kháng chiến, bí mật liên hệ với lực lượng yêu nước ở bên ngoài. Nhiều sĩ phu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... đã gặp gỡ Hoàng Hoa Thám bàn kế hoạch phối hợp hành động, mở rộng hoạt động xuống đồng bằng (và trong thời gian này, một cánh quân thuộc Trung Quốc Cách mạng Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn cũng đã được Đề Thám chu cấp, giúp đỡ).
Lực lượng của cuộc khởi nghĩa bị suy yếu:
Ngày 29/1/1909, Thống sứ Bắc Kỳ đã huy động một lực lượng lớn chưa từng có gồm 15.000 quân chính quy, lính khố xanh cùng 400 lính dõng (do Đại tá Bataille chỉ huy) tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế. Đề Thám vừa tổ chức đánh trả, vừa phải rút lui khỏi Yên Thế để bảo toàn lực lượng. Thế nhưng với một lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân bị tổn thất nặng, trong đó có con trai lớn của Ông là Cả Trọng cũng bị tử thương. Sau khi thoát khỏi vòng vây, Hoàng Hoa Thám chỉ huy lực lượng còn lại phối hợp với các toán nghĩa quân đang có mặt ở Vĩnh Phú tiến hành một cuộc vận động chiến, thôn trang chiến nổi tiếng, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại (hồi tháng 7/1909). Đầu tháng 8/1909, Lê Hoan được tung vào chiến trường. Đề Thám vừa đánh vừa lui về núi Sáng trên dẫy Tam Đảo và đánh thắng một trận quan trọng ở đây. Nhưng từ khi bà Ba Cẩn (vợ ba Đề Thám) và con gái út của Ông là Hoàng Thị Thế bị bắt, lực lượng nghĩa quân giảm sút dần và tới đầu 1910 thì bị tan rã. Đề Thám phải sống ẩn náu trong núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc.
Về cái chết của Hoàng Hoa Thám:
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã chấm dứt vào năm 1913. Có những giả thiết khác nhau về cái chết của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám.
1- Trong những ngày cuối cùng, lực lượng của nghĩa quân ngày càng mỏng, Đề Thám chỉ còn vài thủ hạ bảo vệ bên cạnh và liên tục phải di chuyển. Khi ông tới vùng Hố Lẩy, người Pháp đã bố trí 3 người đến trá hàng để tiếp cận và hạ sát ông cùng 2 thủ hạ vào sáng mồng 5 Tết năm Quý Sửu (tức ngày 10/2/1913), sau đó mang thủ cấp ông ra bêu ở Nhã Nam (Phủ đường Yên Thế) để thị uy dân chúng. Tuy nhiên, có ý kiến nghi ngờ về giả thiết này khi viện dẫn 3 thông tin khác:
1.1-Nhà cầm quyền Pháp chỉ cho bêu đầu 2 ngày rồi vội cho tẩm dầu đốt thành tro đem đổ xuống ao và không cho công bố ảnh chụp thủ cấp Hoàng Hoa Thám và các thủ hạ bị sát hại.
1.2- Theo Lý Đào, một cận vệ cũ của Hoàng Hoa Thám (Lý Đào thường cắt tóc cho Đhoàng Hoa Thám) thì đầu Ông (Hoàng Hoa Thám) có một đường gồ chạy từ trán lên đỉnh, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm. Thế nhưng cái đầu được cho là của Hoàng Hoa Thám đem bêu ở Phủ đường Nhã Nam lại không có đường gồ, cằm cũng không có râu.
1.3- Theo người dân làng Lèo, thủ cấp bị bêu ở phủ đường Nhã Nam là của sư ông trụ trì chùa Lèo, vì sư ông có dung mạo khá giống với Hoàng Hoa Thám và kể từ hôm đó (hôm bêu đầu ở Nhã Nam) thì không thấy sư ông chùa Lèo xuất hiện trở lại (có lẽ sư ông đã bị giết để thế mạng).
2- Hoàng Hoa Thám chạy trốn và sống ẩn dật những ngày cuối đời trong dân chúng, và cuối cùng đã bị chết vì bệnh tật. Một số quan lại thì cho rằng ông mất vào trước thời điểm ngày 10/2/1913; còn dân chúng lại cho rằng ông mất sau thời gian này (?).
Và cho đến hôm nay vẫn chưa xác định được phần mộ Hoàng Hoa Thám. Việc này cũng có nhiều giả thiết khác nhau và cũng chưa có kết luận cuối cùng trong giới nghiên cứu.
Không có nhận xét nào...